Bài văn kể lại một câu chuyện
Bài văn mẫu số 1: Nhà phát minh 6 tuổi
Em rất yêu thích câu chuyện "Nhà phát minh 6 tuổi mà em đã được học trong sách giáo khoa.
Câu chuyện có nhân vật chính là cô bé Ma-ri-a, Cô bé sinh ra và lớn lên trong một gia đình có sáu đời đều có người là giáo sư đại học. Từ nhỏ, Ma-ri-a đã rất thích quan sát mọi vật xung quanh mình. Năm sáu tuổi, khi nhìn
thấy gia nhân bưng một tách trà, cô đã chăm chú nhìn theo. Vì thế mà cô phát hiện rằng, lúc đầu tách đựng trà có vẻ rất trơn trượt nên làm đổ ra ngoài một ít nước trà. Nhưng khi đã có nước trà trong đĩa, thì tách đựng trà lại bỗng đứng yên không chuyển động. Điều này làm cô gái nhỏ vô cùng tò mò. Vì vậy, cô đã tranh thủ khi người lớn không để ý đến, bí mật chạy vào bếp để tự mình kiểm tra. Cuối cùng, cô bé cũng nhận ra rằng: chính nước trà ở giữa tách trà và đĩa đã khiến cho tách trà đứng yên. Sau này, cô gái bé nhỏ ấy đã trở thành giáo sư của nhiều trường đại học danh tiếng ở Mỹ. Thậm chí, còn giành được giải thưởng Nô-ben Vật lí danh giá vào năm 1963.
Câu chuyện "Nhà phát minh 6 tuổi” đã giúp em được biết về một phát hiện thú vị tưởng chừng như rất hiển nhiên trong cuộc sống. Từ đó, em hiểu ra rằng, xung quanh chúng ta có rất nhiều điều thú vị và bổ ích.
(Theo Linh Anh)
Bài văn mẫu số 2: Cậu bé thông minh
Trong một lần đọc sách ở thư viện, em đã đọc được một câu chuyện rất thú vị về trí thông minh tuyệt vời của Lương Thế Vinh - một thần đồng toán học nổi tiếng của nước ta.
Chuyện kể rằng năm đó, khi đoàn sứ thần của Trung Hoa sang nước ta, đã đem theo một câu đố thật khó để thử tài ông Trạng Lương Thế Vinh. Sứ thần đã yêu cầu Lương Thế Vinh tính ra cân nặng của một con voi rất lớn. Kích thước đồ sộ của con voi chẳng một chiếc cân nào cân nổi nó cả. Đã vậy, sứ thần còn yêu cầu không được làm bị thương con voi nữa. Tuy câu hỏi hóc búa là vậy, nhưng sau một hồi suy nghĩ, Trạng đã tìm ra giải pháp. Ông sai lính lấy một chiếc thuyền lớn, dắt voi lên thuyền và đánh dấu lại mực nước khi đó. Rồi ông cho người dần dần chất đá lên thuyền, cho đến khi mực nước trùng với vạch đánh dấu lúc nãy. Cuối cùng, ông cho lính cân số đã trên thuyền, cân nặng của số đã đó chính là cân nặng của con voi. Khi nhận kết quả, sứ thần Trung Hoa vừa bất ngờ vừa tức tối. Sự thông minh của Lương Thế Vinh khiến sứ thần rất dè chừng, nên vội xin về nước ngay sau đó.
Từ câu chuyện, em rất khâm phục và tự hào về trí tuệ của ông Trọng Lương Thế Vinh. Sự linh động và nhạy bén trong tư duy của ông đã khiến sứ thần nước bạn phải ngỡ ngàng.
(Theo Uyển Ly)
Bài văn mẫu số 3: Thử tài
Nước Việt ta từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng là vùng đất có nhiều người tài giỏi. Câu chuyện "Thử tài” đã chứng thực điều này.
Xưa, có một cậu bé rất thông minh. Vua nghe tiếng đồn nên muốn thử tài, ông cho gọi cậu đến và bảo: "Ngươi hãy về lấy tro bếp để bện cho ta một sợi dây thừng. Nếu làm được, ta sẽ thưởng lớn.”. Cậu bé về đến nhà, nhờ mẹ chặt cây fre trong vườn đi, chẻ nhỏ thành những lát mỏng, dẻo rồi bện chúng thành sợi dây thừng. Sau đó, cậu cuộn tròn sợi dây, đặt lên chiếc mâm đồng, phơi ngoài ánh nắng mặt trời cho thật khô rồi châm lửa đốt. Khi cháy thành tro, sợi dây vẫn giữ nguyên hình dáng ban đầu. Vua thấy được rất vui sướng, thưởng lớn cho cậu bé. Thế nhưng ông vẫn muốn tiếp tục thử tài. Ông đưa cho cậu bé chiếc sừng trâu cong như mặt trăng rồi bảo: "Ta muốn nắn thẳng chiếc sừng này. Nếu người làm được, ta sẽ thưởng lớn.”. Cậu bé về nhà, ninh sừng trâu thật kĩ. Để đến khi nó mềm ra, thật dễ uốn, cậu lấy đoạn tre thẳng thọc vào sừng trâu rồi đem phơi thật khô để nó cứng lại. Đến khi rút đoạn tre ra, chiếc sừng trâu đã trở nên thẳng đuột. Vua thấy vậy cực kì vui mừng. Biết cậu bé là một nhân tài trăm năm có một, vua bèn đưa cậu vào trường học và nuôi dạy thành tài.
Đọc xong câu chuyện, em rất khâm phục tài trí của cậu bé. Nhờ sự thông minh mà cậu được vua ban thưởng rất hậu hĩnh. Em sẽ cố gắng học tập thật tốt, tiếp thu thật nhiều kiến thức để được thông minh giống như cậu bé trong truyện.
(Theo Mai Thuỳ)
Bài văn mẫu số 4: Câu chuyện về chú bé chăn cừu
Ngày xưa, ở một ngôi làng nhỏ có một cậu bé chăn cừu tên là Tí. Hằng ngày, cậu đưa đàn cừu ra đồng cỏ gần rừng để chăn thả. Vì công việc khá buồn chán, cậu nghĩ ra trò đùa. Một hôm, Tí hét toáng lên: “Sói! Sói đến rồi!” Người làng vội vã chạy ra giúp, nhưng chẳng thấy con sói nào. Cậu cười khoái chí. Mọi người tức giận bỏ về. Lần thứ hai, cậu lại hét lên như thế và tiếp tục đùa giỡn. Đến lần thứ ba, sói thật sự xuất hiện, đàn cừu hoảng loạn bỏ chạy. Cậu bé kêu cứu nhưng không ai đến. Kết quả, đàn cừu bị sói tha đi mất. Từ đó, Tí rất hối hận và không bao giờ nói dối nữa. Câu chuyện dạy em rằng: Nói dối sẽ làm mất lòng tin và gây hậu quả đáng tiếc.
Bài văn mẫu số 5: Câu chuyện về cây tre trăm đốt
Ngày xưa, có một anh nông dân hiền lành làm thuê cho một phú ông. Anh chăm chỉ, thật thà nên phú ông hứa gả con gái cho anh nếu tìm được “cây tre trăm đốt”. Anh vào rừng, đi mãi mà không thấy. Khi nản lòng, một ông tiên hiện ra và mách rằng cứ chặt đủ 100 đốt rồi đọc câu “Khắc nhập! Khắc nhập!” thì tre sẽ liền lại. Nghe lời, anh làm theo và cây tre dài hiện ra. Anh vác về, khiến phú ông sợ hãi, phải giữ lời hứa. Anh cưới được vợ và sống hạnh phúc. Câu chuyện khiến em cảm thấy yêu quý những người thật thà, chăm chỉ, vì họ xứng đáng được hạnh phúc.
Bài văn mẫu số 6: Câu chuyện người mẹ hiền
Hồi bé, em rất hay nghịch ngợm và lười học. Một hôm, em bị điểm kém, sợ quá nên giấu bài kiểm tra đi. Mẹ hỏi, em nói dối. Đến tối, mẹ tìm thấy bài và không mắng mà chỉ nhẹ nhàng nói: “Con sai ở điểm nào mẹ cùng xem lại nhé!” Lúc đó, em vừa xấu hổ vừa xúc động. Nhờ sự kiên nhẫn và yêu thương của mẹ, em học tốt hơn và không còn giấu bài nữa. Câu chuyện nhỏ khiến em hiểu rằng mẹ là người luôn bao dung, dạy dỗ em bằng tình thương.
Bài văn mẫu số 7: Câu chuyện kể về lần em làm mất đồ
Có một lần em làm mất chiếc bút mực mẹ mới mua. Chiếc bút màu xanh, có in hình siêu nhân mà em rất thích. Khi tìm mãi không thấy, em buồn bã không dám nói với mẹ. Nhưng đến giờ làm bài, không có bút, em đành thú nhận. Mẹ không trách mà nói nhẹ nhàng: “Lần sau con nên cất cẩn thận hơn nhé!” Em cảm thấy xấu hổ và từ đó biết giữ gìn đồ dùng cẩn thận hơn. Câu chuyện khiến em nhớ mãi vì mẹ đã dạy em bằng sự yêu thương và bao dung.
Bài văn mẫu số 8: Câu chuyện cổ tích về Sọ Dừa
Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo không con, bà vợ cầu trời rồi sinh ra một đứa bé không tay không chân, hình dáng tròn như cái sọ dừa. Tuy vậy, cậu bé rất thông minh và siêng năng. Khi lớn lên, cậu xin đi chăn bò và được gả cho cô con gái út hiền lành. Một lần, khi triều đình mở kỳ thi, Sọ Dừa xin đi thi và đỗ trạng nguyên. Chàng cưới vợ, sống hạnh phúc. Câu chuyện cho em bài học rằng: Không nên coi thường vẻ bề ngoài, mà hãy quý trọng tấm lòng và tài năng thật sự của mỗi người.
Bài văn mẫu số 9: Câu chuyện cây táo và cậu bé
Ngày xưa, có một cậu bé rất yêu cây táo trong vườn. Khi còn nhỏ, cậu chơi đùa cùng cây mỗi ngày. Khi lớn, cậu rời đi. Mỗi lần trở về, cậu lại xin cây: khi thì quả, khi thì cành, thân cây để dựng nhà, làm thuyền... Cây đều cho cậu tất cả. Cuối cùng, khi cậu đã già, cây chẳng còn gì ngoài gốc khô. Nhưng cậu ngồi xuống và nói: “Chỉ cần nơi để nghỉ ngơi.” Câu chuyện khiến em xúc động vì nó giống tình cảm cha mẹ dành cho con – luôn cho đi mà không đòi hỏi điều gì.
Bài văn mẫu số 10: Câu chuyện kể về một lần em giúp người khác
Một hôm đi học về, em thấy một cụ bà đang đứng lúng túng bên đường vì xe bị đổ. Em liền chạy lại dựng xe giúp bà. Bà mỉm cười nói cảm ơn, rồi rút từ túi ra một viên kẹo cho em. Em không nhận, chỉ nói: “Con giúp vì con vui ạ!” Khi về kể cho mẹ, mẹ xoa đầu và khen em đã biết giúp đỡ người khác. Em cảm thấy rất vui và ấm lòng. Câu chuyện giúp em hiểu rằng: Một việc tốt dù nhỏ cũng mang lại niềm vui cho cả người cho đi và người nhận được.
Bài văn mẫu số 11: Câu chuyện “Thỏ và Rùa”
Trong rừng có một chú thỏ và một chú rùa. Thỏ vốn nhanh nhẹn nên coi thường rùa chậm chạp. Một hôm, thỏ thách rùa chạy thi. Khi chạy được một đoạn xa, thỏ nghĩ rằng rùa còn lâu mới đuổi kịp nên nằm nghỉ. Trong khi đó, rùa kiên trì đi từng bước và về đích trước thỏ. Thỏ tỉnh dậy thì đã quá muộn. Câu chuyện khiến em nhớ mãi vì dạy em bài học: Không nên chủ quan và chê bai người khác. Sự kiên trì, nhẫn nại mới là điều quý giá.
Bài văn mẫu số 12: Câu chuyện “Sự tích bánh chưng, bánh giầy”
Ngày xưa, vua Hùng muốn chọn người kế ngôi nên ra lệnh các hoàng tử đem lễ vật cúng tổ tiên. Lang Liêu – người con nghèo – đã làm ra hai loại bánh: bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất, bánh giầy hình tròn tượng trưng cho trời. Vua Hùng cảm động và chọn Lang Liêu làm vua. Câu chuyện không chỉ lý giải nguồn gốc hai loại bánh truyền thống mà còn dạy em rằng: Sự sáng tạo và tấm lòng thành kính luôn được trân trọng.
Bài văn mẫu số 13: Câu chuyện em kể về một lần làm việc tốt
Một lần trên đường đi học, em thấy một bé lớp 1 làm rơi hộp bút. Không ai để ý, em chạy lại nhặt giúp và gọi em nhỏ quay lại. Bé nói lời cảm ơn, ánh mắt đầy biết ơn. Dù chỉ là việc nhỏ, nhưng em thấy lòng mình thật vui. Khi về nhà, em kể lại cho bố mẹ nghe và được khen. Từ đó, em học được rằng: Làm việc tốt không cần điều gì to tát, chỉ cần một tấm lòng biết quan tâm, chia sẻ.
Bài văn mẫu số 14: Câu chuyện cổ tích “Cô bé lọ lem”
Cô bé lọ lem là người hiền lành nhưng bị mẹ kế và hai chị ghẻ đối xử tệ bạc. Dù phải làm việc vất vả, cô vẫn luôn ngoan ngoãn. Một hôm, nhờ sự giúp đỡ của bà tiên, cô được đi dự dạ hội và gặp hoàng tử. Sau nhiều thử thách, cô được hoàng tử nhận ra qua chiếc giày thủy tinh và hai người cưới nhau. Câu chuyện khiến em xúc động vì lọ lem luôn giữ tấm lòng lương thiện, và cuối cùng cô đã được hạnh phúc. Em học được rằng: Ai sống tốt sẽ được đền đáp.
Bài văn mẫu số 15: Câu chuyện kể về một bài học em rút ra được
Có một lần em quên làm bài tập về nhà. Khi cô giáo hỏi, em định nói dối là quên vở ở nhà. Nhưng rồi em đã dũng cảm nhận lỗi. Cô không trách mà khen em biết trung thực. Từ hôm đó, em luôn làm bài đầy đủ và không bao giờ trốn tránh lỗi sai nữa. Qua câu chuyện này, em học được rằng: Sự trung thực luôn là điều quan trọng trong học tập và trong cuộc sống.